Ung thư đường tiêu hóa là gì? Các công bố khoa học về Ung thư đường tiêu hóa

Ung thư đường tiêu hóa (còn gọi là ung thư tiêu hóa) là một loại ung thư phát triển trong hệ tiêu hóa, bao gồm các bộ phận như đại tràng, ruột non, dạ dày, thực...

Ung thư đường tiêu hóa (còn gọi là ung thư tiêu hóa) là một loại ung thư phát triển trong hệ tiêu hóa, bao gồm các bộ phận như đại tràng, ruột non, dạ dày, thực quản và long trọng. Ung thư đường tiêu hóa có thể bắt đầu từ một khối u ác tính trong các tế bào của các cơ quan này và lan rộng sang các cơ quan khác hoặc cả cơ thể.

Việc chẩn đoán ung thư đường tiêu hóa có thể được thực hiện thông qua các phương pháp như xét nghiệm máu, siêu âm, chụp X-quang, cộng hưởng từ hạt nhân (MRI), thụt tinh (endoscopy) và xét nghiệm tế bào.

Triệu chứng của ung thư đường tiêu hóa có thể bao gồm: mất cân, đau bụng, tiêu chảy hoặc táo bón kéo dài, mệt mỏi, chảy máu đại tiện hoặc nhẩy cầu trong phân.

Điều trị của ung thư đường tiêu hóa có thể bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị hoặc sử dụng kết hợp của các phương pháp này. Tiến triển trong việc chăm sóc và điều trị ung thư đường tiêu hóa đã giúp cải thiện tỷ lệ sống sót và chất lượng cuộc sống của người mắc bệnh. Tuy nhiên, việc phòng ngừa ung thư đường tiêu hóa còn rất quan trọng, bao gồm việc duy trì một lối sống lành mạnh, ăn uống cân đối và thực hiện các xét nghiệm sàng lọc định kỳ.
Ung thư đường tiêu hóa có thể được chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên vị trí bắt đầu và phân loại tế bào ung thư. Dưới đây là một số loại phổ biến của ung thư đường tiêu hóa:

1. Ung thư đại tràng: Đây là loại ung thư phổ biến nhất trong ngành ung thư đường tiêu hóa. Nó có thể bắt đầu từ tế bào sợi hạt của niêm mạc đại tràng, sau đó lan rộng và xâm lấn sâu vào các lớp mô của thành đại tràng. Triệu chứng thường xuất hiện khi bệnh đã phát triển qua giai đoạn muộn và bao gồm: thay đổi về màu, hình dạng hoặc tần suất của phân, mệt mỏi, giảm cân đáng kể, đau bụng, chảy máu từ đại tràng và táo bón.

2. Ung thư dạ dày: Ung thư này phát triển trong niêm mạc dạ dày và có thể lan ra các tế bào gần đó hoặc lan xa đến các cơ quan khác. Triệu chứng bao gồm: đau bụng, tiêu chảy, mệt mỏi, nôn mửa, chảy máu dạ dày và giảm cân.

3. Ung thư thực quản: Đây là loại ung thư phát triển từ niêm mạc thực quản và chủ yếu có liên quan đến việc tiêu thụ hợp chất gây kích ứng cho niêm mạc thực quản, như hút thuốc, uống rượu, ăn một số thực phẩm cháy, hoặc có biến đổi gene di truyền. Triệu chứng bao gồm: đau trong ngực, khó nuốt, mất cân, ho, khó thở và nôn mửa.

4. Ung thư ruột non: Ung thư này phát triển từ niêm mạc ruột non. Triệu chứng bao gồm: thay đổi về màu, hình dạng hoặc tần suất của phân, đau bụng, tiêu chảy, mệt mỏi, giảm cân và chảy máu từ ruột non.

Điều trị ung thư đường tiêu hóa tùy thuộc vào giai đoạn, vị trí và loại ung thư. Ngoài phẫu thuật, hóa trị và xạ trị, điều trị cũng có thể bao gồm việc sử dụng thuốc tiếp thị, immunotherapy và targeted therapy. Kế hoạch chăm sóc cụ thể sẽ phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và ý kiến của các chuyên gia trong ngành ung thư.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư đường tiêu hóa":

Tác động của việc tái cắt cho các cạnh không đủ trên tiên lượng của ung thư đường hô hấp tiêu hóa trên được điều trị bằng phẫu thuật nội soi laser Dịch bởi AI
Laryngoscope - Tập 117 Số 2 - Trang 350-356 - 2007
Tóm tắt

Mục tiêu: Các cạnh phẫu thuật dương tính hoặc không chắc chắn nếu để lại không được điều trị có liên quan đến tiên lượng rõ rệt trong ung thư tế bào vảy của đường hô hấp tiêu hóa trên. Một lợi thế của phẫu thuật nội soi laser qua miệng là có thể được lặp lại dễ dàng nếu tìm thấy các cạnh cắt không đủ sau phẫu thuật. Nghiên cứu hiện tại điều tra tác động của việc tái cắt phẫu thuật bằng laser đến kết quả của bệnh nhân.

Thiết kế nghiên cứu: Các tác giả đã thực hiện một nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm.

Phương pháp: Một cuộc đánh giá đối với 1.467 bệnh nhân bị ung thư tế bào vảy của đường hô hấp tiêu hóa trên đã được điều trị ban đầu bằng phẫu thuật nội soi laser qua miệng với mục đích chữa bệnh giữa tháng 8 năm 1986 và tháng 12 năm 2002 đã được thực hiện. Kiểm soát tại chỗ cũng như sống sót đã được điều chỉnh theo TNM và sống tổng thể được phân tích bằng phương pháp Kaplan‐Meier.

Kết quả: Ba trăm tám mươi sáu bệnh nhân đã phải tái cắt để có được các cạnh phẫu thuật rõ ràng, trong đó 70 bệnh nhân có khối u còn sót lại đã được phát hiện trong các mẫu phục hồi. Các bệnh nhân không cần sửa đổi và những bệnh nhân có mẫu phục hồi không có khối u có kiểm soát tại chỗ gần như giống hệt nhau (P = .4611). Tuy nhiên, ở những bệnh nhân có các mẫu phục hồi dương tính, kiểm soát tại chỗ đã bị suy giảm đáng kể (P = .0058). Việc cần tái cắt hay phát hiện thêm mô khối u trong các mẫu phục hồi không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống sót điều chỉnh theo TNM hoặc tổng số.

Kết luận: Tỷ lệ sống sót của bệnh nhân là tương tự nhau bất kể các cạnh cắt rõ ràng được đạt được trong bước phẫu thuật đầu tiên hay với phẫu thuật sửa đổi. Tuy nhiên, những bệnh nhân mà các mẫu tái cắt chứa khối u còn sót lại có nguy cơ gia tăng về thất bại tại chỗ và nên trải qua một lần tái cắt khác hoặc ít nhất là theo dõi rất chặt chẽ.

Lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa: liệu việc biết về chẩn đoán ung thư có quan trọng không? Dịch bởi AI
BMC Gastroenterology - - 2007
Tóm tắt Giới thiệu

Ung thư đường tiêu hóa là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nam giới và đứng thứ hai ở phụ nữ tại Iran. Một nghiên cứu đã được tiến hành để khảo sát tình trạng lo âu và trầm cảm trong nhóm bệnh nhân này và xem xét liệu việc nhận thức về chẩn đoán ung thư có ảnh hưởng đến nỗi đau tâm lý của họ hay không.

Phương pháp

Đây là một nghiên cứu cắt ngang về lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa đến khám tại Viện Ung thư Tehran. Lo âu và trầm cảm được đo bằng Thang đo Lo âu và Trầm cảm Bệnh viện (HADS). Đây là một bảng hỏi hợp lệ và được sử dụng phổ biến để đo lường nỗi đau tâm lý ở bệnh nhân ung thư. Dữ liệu nhân khẩu học và lâm sàng cũng được thu thập để khảo sát lo âu và trầm cảm trong các nhóm bệnh nhân, đặc biệt là những người biết về chẩn đoán ung thư của mình và những người không biết.

#ung thư #lo âu #trầm cảm #chẩn đoán ung thư #đau khổ tâm lý
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HÓA SAU PHẪU THUẬT TẠI TRUNG TÂM UNG BƯỚU - BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 528 Số 2 - 2023
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 51 bệnh nhân mắc ung thư đường tiêu hóa đã phẫu thuật tại Trung tâm Ung bướu của Bệnh viện trung ương Thái Nguyên với mục tiêu mô tả tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa sau phẫu thuật tại Trung tâm Ung bướu bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2022 và phân tích một số yếu tố liên quan. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng người trưởng thành dựa theo phân loại chuẩn của WHO năm 2006 và đánh giá PG-SGA. Kết quả  nghiên  cứu cho thấy theo phân loại đánh giá PG-SGA có 82,4% đối tượng nghiên cứu có tình trạng SDD nhẹ và trung bình; 3,9% đối tượng có SDD mức độ nặng. Phân loại theo BMI có 29,5% đối tượng nghiên cứu có suy dinh dưỡng, 1,9% đối tượng thừa cân. Tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giai đoạn ung thư; triệu chứng chán ăn, ăn không ngon miệng và tình trạng dinh dưỡng của nhóm đối tượng nghiên cứu (p<0,05).
#suy dinh dưỡng #ung thư tiêu hóa sau phẫu thuật #PG-SGA.
THỰC TRẠNG KHẨU PHẦN ĂN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HÓA ĐIỀU TRỊ HÓA CHẤT TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Mục tiêu: Đánh giá khẩu phần thực tế của bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa điều trị hóa chất tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Phương pháp: Điều tra cắt ngang được tiến hành trên 66 bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa điều trị hóa chất tại khoa Ung bướu và Chăm sóc giảm nhẹ, bệnh viện Đại học Y Hà Nội bằng phỏng vấn khẩu phần 24 giờ. Kết quả: Năng lượng trung bình của khẩu phần là 1323,9±358,4 kcal/ngày (24,1±7,4 kcal/kg/ngày) với 36,4% bệnh nhân đạt 100% so với nhu cầu khuyến nghị (NCKN). Protein, glucid của khẩu phần trung bình là 66,4±18,2 g/ngày (1,2 ± 0,37 g/kg/ngày); 176,8±56,3 g/ngày, có 43,9%; 24,2% bệnh nhân đạt 100% so với NCKN về Protein và Glucid, có sự khác biệt giữa hai nhóm BN ung thư dạ dày và đại tràng (tương ứng p=0,048; p=0,044). Tỷ lệ các chất sinh năng lượng 20,2: 26,2: 53,6 chưa cân đối theo khuyến nghị, năng lượng do Lipid cung cấp thấp hơn so với khuyến nghị.Tỷ lệ bệnh nhân với khẩu phần không đạt 100% NCKN về sắt, canxi, vitamin A, B1, B2, PP lần lượt là: 77,3%; 57,6%; 92,4%; 48,5%; 74,2%; 78,8%. Kết luận: Khẩu phần của đối tượng nghiên cứu thiếu hụt về các chất sinh năng lượng, vitamin và chất khoáng, cần có giải pháp truyền thông dinh dưỡng và can thiệp dinh dưỡng cho bệnh nhân.
#Khẩu phần 24h #ung thư đường tiêu hóa #điều trị hóa chất
ĐỊNH DANH LOÀI VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NHẠY CẢM VỚI THUỐC KHÁNG NẤM CỦA VI NẤM CANDIDA PHÂN LẬP TỪ ĐƯỜNG TIÊU HÓA BỆNH NHI SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 3 Số 35 - Trang 32-38 - 2021
Đặt vấn đề: Nấm Candida ở đường tiêu hóa là tình trạng thường gặp ở trẻ sơ sinh. Vi nấm có thể gây thể bệnh phổ biến là viêm niêm mạc miệng lưỡi ở độ tuổi này. Đồng thời nấm Candida cũng làm một trong các tác nhân gây nhiễm trùng sơ sinh thường gặp ở ICU Nhi. Mục tiêu: 1. Định danh loài vi nấm Candida ở đường tiêu hóa của bệnh nhi sơ sinh, 2. Đánh giá mức độ nhạy cảm với thuốc kháng nấm của vi nấm phân lập. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên các bệnh nhi được chẩn đoán bệnh lý đang điều trị tại phòng Nhi Sơ sinh, khoa Sản tại bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế, thời gian từ 1.2020 -12.2020. Kết quả: Tỷ lệ nấm Candida hoại sinh tại đường tiêu hóa là 28,83%. Trong đó, C. non albicans chiếm tỷ lệ cao hơn so với C. albicans (76,67% vs 23,33%).  Không ghi nhận tình trạng đề kháng của Candida với amphotericine B và nystatin.Tỷ lệ đề kháng của vi nấm candida với fluconazole, itraconazole, voriconazole, caspofungin và 5-flucystosin lần lượt là 6,67%, 3,33%, 3,33%, 23,33% và 16,66%. C. albicans nhạy cảm tốt với nhóm azoles và caspofungin. Trong khi đó, C. non albicans có tỷ lệ nhất định đề kháng với các thuốc này. C.albicans có tỷ lệ đề kháng với 5-flucytosin cao hơn C. non albicans (p<0,05). Hiện tượng đề kháng ≥2 loại thuốc gặp ở 34,78% C. non albicans. Kết luận: C. non albicans có phân bố phổ biến ở đường tiêu hóa bệnh nhi tại phòng Nhi Sơ sinh, khoa Sản bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế. Các chủng Candida được phân lập đều nhạy cảm tốt với amphotericin B và nystatin. C. albicans có hiện tượng đề kháng đáng kể với 5 flucystocine. C. non albicans đề kháng với azole, 5 flucystocine, caspofungin.
#Candida hoại sinh #mức độ nhạy cảm với thuốc kháng nấm #bệnh nhi sơ sinh
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ỨC CHẾ BƠM PROTON TRONG DỰ PHÒNG LOÉT ĐƯỜNG TIÊU HÓA Ở BỆNH NHÂN HỒI SỨC TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: mô tả đặc điểm bệnh nhân và tính phù hợp trong việc sử dụng PPIs để dự phòng loét đường tiêu hóa ở bệnh nhân điều trị tại khoa Hồi sức. Đối tượng:  hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân điều trị tại khoa Hồi sức tích cực từ 09/2021 đến 12/2021. Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu, mô tả. Kết quả: bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có tuổi trung bình cao, chủ yếu là nam giới, có nhiều bệnh lý mắc kèm. Các yếu tố nguy cơ tập trung vào: thở máy trên 48 giờ (94.8%), tình trạng nhiễm khuẩn 89.6%; có 75.7% bệnh nhân nằm hồi sức trên một tuần. Tỷ lệ chỉ định PPIs hợp lý khi bắt đầu là 57.1% và tăng lên 85.2% khi xem xét toàn bộ quá trình điều trị. Thêm vào đó, một số không hợp lý trong sử dụng PPIs bao gồm: quá liều dùng (11.4%); đường dùng, chế phẩm phù hợp (41.7%), trong đó đặc biệt là chế phẩm thích hợp cho các bệnh nhân uống qua sonde dạ dày. Kết luận: Cần nâng cao việc đánh giá và sử dụng hợp lý PPIs trong việc dự phòng loét đường tiêu hóa cho bệnh nhân hồi sức.
ĐẶC ĐIỂM LO ÂU TRÊN THANG ĐIỂM GAD-7 Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lo âu trên thang điểm GAD-7 ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa tại bệnh viện K. Đối tượng: 124 bệnh nhân đã chẩn đoán xác định ung thư đường tiêu hóa và điều trị tại bệnh viện K từ tháng 8/2020 đến tháng 10/2020. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 2,6/1, tuổi trung bình là 57,9, đa số có trình độ dưới lớp 10 (57,3%) và độc thân/góa (93,5%). Vị trí ung thư phổ biến nhất là đại trực tràng (52,4%), tiếp theo là thực quản (27,4%) và dạ dày (20,2%), đa số ở giai đoạn III-IV (64,5%). Điểm trung bình GAD-7 là 3,5 ± 4,66 với 30,6% bệnh nhân có lo âu. Lo âu có liên quan có ý nghĩa thống kê với tuổi (p = 0,003; OR = 1,059, 95%CI = 0,123-9,097) và thời gian chẩn đoán ung thư (p = 0,037; OR = 1,238, 95%CI = 0,140-10,940). Tỷ lệ lo âu cao nhất ở ung thư dạ dày (20% có GAD-7 ≥ 10) và giai đoạn III-IV (22,6%). Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa lo âu với vị trí và giai đoạn ung thư (p>0,05). Kết luận: Lo âu thường gặp ở người bệnh ung thư đường tiêu hóa. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa lo âu với tuổi và thời gian chẩn đoán bệnh.
#Lo âu #ung thư đường tiêu hóa #đặc điểm #PHQ-9
Đánh giá hiệu quả nuôi dưỡng sớm đường tiêu hóa sau phẫu thuật ung thư trực tràng
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả nuôi dưỡng sớm đường tiêu hóa sau phẫu thuật ung thư trực tràng (UTTT). Nghiên cứu được tiến hành trên 60 bệnh nhân UTTT được phẫu thuật có làm hậu môn nhân tạo, chia làm hai nhóm: 30 bệnh nhân được can thiệp dinh dưỡng sớm và 30 bệnh nhân thuộc nhóm chứng. Kết quả cho thấy, có 83,3% số bệnh nhân dung nạp tốt; thời gian trung tiện của nhóm can thiệp nhanh hơn nhóm chứng (2,4 ngày so với 3,1 ngày); thời gian nằm viện của nhóm can thiệp ngắn hơn nhóm chứng (12,9 ngày so với 14,8 ngày); nuôi dưỡng sớm đường tiêu hóa làm giảm chi phí so với nuôi dưỡng tĩnh mạch (220.000 đồng/ngày so với 366.000 đồng/ngày). Như vậy có thể khẳng định, nuôi dưỡng sớm bằng đường tiêu hóa cho các bệnh nhân sau mổ UTTT là một phương pháp an toàn, hiệu quả, tiết kiệm chi phí hơn so với nuôi dưỡng đường tĩnh mạch truyền thống.  
#Nuôi dưỡng sớm đường tiêu hóa sau mổ #ung thư trực tràng
ĐẶC ĐIỂM TRẦM CẢM TRÊN THANG ĐIỂM PHQ-9 Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm trầm cảm trên thang điểm PHQ-9 ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa tại bệnh viện K. Đối tượng: 124 bệnh nhân đã chẩn đoán xác định ung thư đường tiêu hóa và điều trị tại bệnh viện K từ tháng 8/2020 đến tháng 10/2020. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 2,6/1, tuổi trung bình là 57,9 ± 9,65. Đa số có trình độ dưới lớp 10 (57,3%) và độc thân/góa (93,5%). Trầm cảm thường gặp nhất ở ung thư đại trực tràng (52,4%), tiếp theo là ung thư thực quản (27,4%) và ít nhất ở ung thư dạ dày (20,2%), đa số bệnh nhân ở giai đoạn III-IV (64,5%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm với ung thư thực quản (p < 0,001; OR = 1,009, 95% CI = 0,359-2,838) và ung thư đại trực tràng (p < 0,05; OR = 0,901, 95%CI = 0,358-2,273). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm với giai đoạn IV với p < 0,05 (OR = 0,196; 95%CI = 0,058-0,660). Theo thang điểm PHQ-9 có 45,2% bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa có biểu hiện trầm cảm và 17,8% có trầm cảm mức độ trung bình trở lên cần được can thiệp. Kết luận: Trầm cảm thường gặp ở người bệnh ung thư đường tiêu hoa. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm với ung thư thực quản, đại trực tràng và giai đoạn muộn.
#Trầm cảm #ung thư đường tiêu hóa #đặc điểm #PHQ-9
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh tầm soát ung thư dạ dày bằng X-quang đường tiêu hóa với xét nghiệm huyết thanh đối với Helicobacter pylori và pepsinogen tiếp theo là nội soi đường tiêu hóa Dịch bởi AI
Gastric Cancer - Tập 18 - Trang 605-611 - 2014
Dựa trên kết quả của nhiều nghiên cứu trường hợp - đối chứng và nghiên cứu đoàn hệ, X-quang đường tiêu hóa (X-quang GI) đã được khuyến nghị sử dụng trong chương trình tầm soát ung thư dạ dày trên toàn quốc. Mặc dù đây là chương trình tầm soát hiệu quả duy nhất khi hầu hết dân số Nhật Bản đều dương tính với Helicobacter pylori (H. pylori), nhưng đã có mối lo ngại liệu có nên thiết lập một hệ thống tầm soát hiệu quả thay thế cho thế hệ không có H. pylori trong tương lai. Do đó, chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) đầu tiên so sánh X-quang GI và nội soi đường tiêu hóa (GIE) được lên lịch theo kết quả xét nghiệm huyết thanh (ST); điều này được thực hiện để xác định khả năng của một phương pháp tầm soát thay thế. Các đối tượng đáp ứng tiêu chí bao gồm là cư dân từ 30 đến 74 tuổi và có thể tham gia tầm soát ung thư dạ dày ở khu vực Yurihonjo. Những người tham gia đã được phân bổ vào nhóm X-quang GI hoặc nhóm GIE-ST bằng cách phân ngẫu nhiên qua máy tính. Các đối tượng trong mỗi nhóm cũng được chia thành 4 loại theo mức độ nguy cơ khác nhau đối với ung thư dạ dày. Tính khả thi của việc phân ngẫu nhiên theo tầng được đánh giá bằng xét nghiệm huyết thanh và tỷ lệ phát hiện ung thư dạ dày tại thời điểm bắt đầu được so sánh giữa các phương pháp tầm soát khác nhau. Trong số 2.962 đối tượng được mời, 1.206 cá nhân (41 phần trăm) đã được đưa vào giai đoạn đầu tiên của RCT phân tầng này, và 604 và 602 cá nhân được phân bổ vào nhóm X-quang GI và nhóm GIE-ST, tương ứng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, tuổi, chiều cao, trọng lượng cơ thể, thói quen hút thuốc, tiêu thụ rượu và tiền sử gia đình mắc ung thư giữa 2 nhóm. Trong quá trình ST, nhóm X-quang GI cho thấy phân bố không khác biệt thống kê so với nhóm GIE-ST. Mặc dù có 3 trường hợp ung thư dạ dày được phát hiện trong nhóm GIE-ST, nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm. Một biến chứng được phát hiện là sự hít phải bari trong quá trình kiểm tra ở nhóm X-quang. Chúng tôi đã xác nhận rằng các đặc điểm nhân khẩu học cơ bản của 2 nhóm được cân bằng tốt. Chúng tôi hiện đang tổ chức RCT đầu tiên để so sánh phương pháp tầm soát hiện tại và phương pháp thay thế (Số đăng ký thử nghiệm lâm sàng: UMIN000005962).
#Ung thư dạ dày #X-quang đường tiêu hóa #nội soi đường tiêu hóa #nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng #Helicobacter pylori
Tổng số: 45   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5